Thanh toán qua ngân hàng đối với các doanh nghiệp bán hàng
Thông tư 26/2015/TT-BTC tại Điều 1, Khoản 10 sửa đổi, bổ sung Điều 15 Thông tư 219/2013/TT-BTC đã được sửa đổi, bổ sung tại Thông tư số 119/2014/TT-BTC và Thông tư số 151/2014/TT-BTC như sau:
“Điều 15. Điều kiện khấu trừ thuế giá trị gia tăng đầu vào
…..
2. Có chứng từ thanh toán không dùng tiền mặt đối với hàng hóa, dịch vụ mua vào (bao gồm cả hàng hóa nhập khẩu) từ hai mươi triệu đồng trở lên, trừ các trường hợp giá trị hàng hóa, dịch vụ nhập khẩu từng lần có giá trị dưới hai mươi triệu đồng, hàng hóa, dịch vụ mua vào từng lần theo hóa đơn dưới hai mươi triệu đồng theo giá đã có thuế GTGT và trường hợp cơ sở kinh doanh nhập khẩu hàng hóa là quà biếu, quà tặng của tổ chức, cá nhân ở nước ngoài.”
Thông tư 78/2014/TT-BTC tại Điều 6, Khoản 1 quy định các khoản chi được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế như sau:
“1. Trừ các khoản chi không được trừ nêu tại Khoản 2 Điều này, doanh nghiệp được trừ mọi khoản chi nếu đáp ứng đủ các điều kiện sau:
….
c) Khoản chi nếu có hóa đơn mua hàng hóa, dịch vụ từng lần có giá trị từ 20 triệu đồng trở lên (giá đã bao gồm thuế GTGT) khi thanh toán phải có chứng từ thanh toán không dùng tiền mặt.
Chứng từ thanh toán không dùng tiền mặt thực hiện theo quy định của các văn bản pháp luật về thuế giá trị gia tăng.”
Căn cứ theo các quy định trên thì pháp luật chỉ quy định việc thanh toán không dùng tiền mặt đối với các hóa đơn trên hai mươi triệu đồng của các doanh nghiệp mua hàng. Doanh nghiệp mua hàng hóa dịch vụ trên hai mươi triệu đồng thì phải thanh toán qua ngân hàng để được khấu trừ thuế GTGT và được tính vào chi phí được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế. Cho tới nay, chưa có quy định việc doanh nghiệp bán hàng phải thu tiền bán hàng qua ngân hàng.
Tuy nhiên vẫn có trường hợp ngoại lệ, bên bán hàng bắt buộc phải thu tiền hàng qua ngân hàng thì mới được khấu trừ thuế GTGT
Thông tư 219/2013/TT-BTC tại Điều 16 quy định điều kiện khấu trừ, hoàn thuế đầu vào của hàng hóa dịch vụ xuất khẩu như sau:
“Hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu (trừ các trường hợp hướng dẫnĐiều 17 Thông tư này) để được khấu trừ thuế, hoàn thuế GTGT đầu vào phải có đủ điều kiện và các thủ tục nêu tại khoản 2 Điều 9 và khoản 1 Điều 15 Thông tư này, cụ thể như sau:
1. Hợp đồng bán hàng hoá, gia công hàng hóa (đối với trường hợp gia công hàng hóa), cung ứng dịch vụ cho tổ chức, cá nhân nước ngoài.
.....
2. Tờ khai hải quan đối với hàng hoá xuất khẩu đã làm xong thủ tục hải quan theo hướng dẫn của Bộ Tài chính về thủ tục hải quan...
…..
3. Hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu phải thanh toán qua ngân hàng
…..
4. Hóa đơn GTGT bánhàng hóa, dịch vụ hoặc hoá đơn xuất khẩuhoặc hoá đơn đối với tiền giacông của hàng hoá gia công.”
Căn cứ theo quy định trên đối với những công ty xuất khẩu hàng hóa thì để được khấu trừ, hoàn thuế đầu vào của hàng hóa dịch vụ xuất khẩu thì doanh nghiệp phải có chứng từ thanh toán qua ngân hàng đối với hàng hóa xuất khẩu.
Kết luận: Theo quy định của pháp luật về thuế GTGT, những doanh nghiệp xuất khẩu phải có chứng từ thanh toán qua ngân hàng để được khấu trừ, hoàn thuế GTGT đầu vào.
Doanh nghiệp bán hàng thông thường thì không bắt buộc phải có chứng từ thanh toán qua ngân hàng của hàng xuất bán. Doanh nghiệp bán hàng có thể thu tiền hàng bằng tiền mặt.
Khi xuất hóa đơn, chỉ tiêu Hình thức thanh toán ghi trên hóa đơn không phải chỉ tiêu bắt buộc. Vì thế bên bán có thể ghi TM, có thể ghi TM/CK, hoặc không ghi ...Cơ quan thuế căn cứ vào chứng từ thanh toán để xác định bên mua thanh toán dùng tiền mặt hay không, chứ không căn cứ vào hình thức thanh toán ghi trên hóa đơn để xác định.